Phân tích tác phẩm để thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội "thượng lưu" thành thị những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và nghệ thuật trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.
Bạn đang xem: Top 6 mẫu phân tích hạnh phúc của một tang gia của vũ trọng phụng hay nhất
Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” – trích từ tiểu thuyết văn học Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Nhằm giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức và đạt được kết quả cao trong học tập thì hôm nay jualkaosmuslim.com muốn chia sẻ đến các bạn cách lập dàn ý chi tiết cùng top 6 mẫu phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia hay nhất do jualkaosmuslim.com tuyển chọn. Cùng tham khảo ngay nhé!
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia- trích Số đỏ hay nhất1. Mở bài
– Giới thiệu những nét tiêu biểu về Vũ Trọng Phụng: có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ngòi bút sắc sảo của ông thành công nhất ở tiểu thuyết và truyện ngắn.
– Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Là toàn bộ chương XV của tiểu thuyết Số đỏ – cuốn tiểu thuyết thành công của Vũ Trọng Phụng.
2. Thân bài
a. Giá trị nội dung
Ý nghĩa nhan đề
– “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc
– “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”
⇒ Nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc
Những niềm vui khác nhau khi cụ cố Tổ mất
+ Niềm vui chung cho cả gia đình:
– Gia đình tràn ngập niềm vui bởi cụ cố tổ chết cũng là lúc cái chúc thư đi vào thời kì thực hành chứ không còn lí thuyết viễn vông nữa
⇒ Một gia đình bất hiếu
+ Niềm vui của những thành viên trong gia đình:
– Cố Hồng (con trai cả): vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo để người ta nghĩ “úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”
⇒ Con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình
– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa
⇒ Người cháu bất hiếu, đầy dã tâm.
– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
⇒ Người cháu thực dụng, thiếu tình người.
– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết nhưng đau khổ như kim châm vào lòng khi không thấy Xuân tóc đỏ đâu với khuôn mặt “buồn lãng mạn”.
⇒ Người con gái hư hỏng, lẳng lơ.
– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến
⇒ Con người vô tâm, kém hiểu biết.
– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.
⇒ Chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản, không có nhân cách, vô liêm sĩ.
– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.
+ Niềm vui của những người ngoài gia đình:
– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “giữa lúc không có ai đáng bị phạt… đương buồn rầu… thì sung sướng cực điểm”.
– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương
– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang.
⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước
Cảnh đám ma gương mẫu
– Tả bao quát đám ma khi đang đi trên đường:
+ Chậm chạp, nhốn nháo như hội rước.
+ Kết hợp ta, Tàu Tây để khoe giàu một cách hợm hĩnh.
– Tả cận cảnh: Người đi dự: giả dối, bàn đủ thứ chuyện.
– Cảnh hạ huyệt:
– Mở đầu: cậu tú Tân thì dàn dựng việc chụp hình một cách giả dối và vô văn hóa.
– Tiếp theo: Ông Phán thì diễn việc làm ăn với Xuân: “Xuân Tóc Đỏ… gấp tư”
⇒ Đó là một màn hài kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại, bất hiếu, bất nghĩa của xã hội thượng lưu trước 1945.
b. Giá trị nghệ thuật
– Xây dựng tình huống độc đáo
– Phát hiện những chi tiết đối lập gây gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự việc.
– Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,… được sử dụng một cách linh hoạt.
– Miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết, nói trúng nét riêng của từng nhân vật.
– Bút pháp trào phúng
3. Kết bài
– Điểm lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Ý nghĩa thực tiễn của đoạn trích: Đoạn trích đem đến một bài học đạo đức cho con người trong mọi thời đại
Qua dàn ý chi tiết tổng hợp những luận điểm chính của tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia trên thì 6 bài văn mẫu sau đây sẽ giúp các bạn học sinh trang bị đầy đủ cách thức triển khai và liên kết các ý, luận điểm ấy với nhau một cách chặt chẽ nhất.
Phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia hay nhấtNếu nói về những tác phẩm thuộc văn học trào phúng Việt Nam thì không thể không nhắc đến cái tên “Số đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Có lẽ chính vì một lối châm biếm sắc sảo rõ nét cũng như đã làm cho tính hấp dẫn của tác phẩm được hiện rõ và để lại những tiếng cười châm biếm sâu cay. Và đoạn trích ấn tượng “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những thành công trong toàn bộ tiểu thuyết “Số đỏ” của nhà văn được mệnh danh là “Ông vua phóng sự Bắc Kỳ” này.
Có thể thấy được điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ngay đó chính là tiêu đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Ta như nhận thấy được rằng đây chính là mâu thuẫn và nực cười của câu chuyện. Khi trong nhà có tang, tang luôn luôn đi liền với sự mất mát và đau thương nhưng ở trong đoạn trích này ta lại không hề thấy được sự đau thương đâu mà nó lại được thể hiện bằng những sự hạnh phúc, như khát khao mong chờ bấy lâu nay mới được toại nguyện.
Khi nhà có tang thì ông Phán mọc sừng lúc này lại rất thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền đó chính là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng. Và có thể thấy được chính người con trai cả – Cụ cố Hồng cũng như nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy. để cho thiên hạ thấy được sự đau khổ cũng như là chỉ trỏ để khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế. Còn đối với ông Văn Minh thì ông lại như rất thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ dường như không còn là lí thuyết viển vông nữa. Còn đối với cậu Tú Tân sướng điên người lên, vì chỉ nó lúc này thì ông mới có dịp thi thố tài chụp ảnh. Ngoài ra thì bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê những kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa của mình và giờ đây cuối cùng được như ý. Còn cô Tuyết lại lại như thêm vui mừng khi lại có dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng manh kia như để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Và dường như tất cả hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó dấu diếm.
Chính những sự hấp dẫn của đoạn trích nhưng lại còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết ta như thấy được nó nằm ngay trong nhan đề của chương đó là “Hạnh phúc của một tang gia”. Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều như đã thấy đây chính là một dịp may ,mà lại còn là dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình. Có lẽ chính vì vậy mà cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Chính cái bọn con cháu vô tâm ai ai dường như cũng đã sung sướng thỏa thích. Người ta như thật tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, và cả cảnh gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân.
Tuyệt nhiên, trong đám tang đó không có một ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Ông Vưn Minh như lại còn thầm biết ơn khi Xuân tóc đỏ đã vô tình làm cho cái chết của cụ cố Hồng đến nhanh hơn, tất cả nhà ai ai cũng háo hức để đón chờ ngày đưa tang, ngày mà cụ cố Hồng chết.
Tiếp theo đó chính là cảnh đám tang. Cảnh đám tang như cũng đã đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm quả thật lố lăng. Và cùng với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối cái lối sống văn minh rởm ấy. Đó dường như chính là một đám ma to tát, long trọng, và kệch cỡm như còn theo cả lối Ta, Tàu, Tây. Đám tang như có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Và dường như lại có cậu Tú Tân chỉ huy, hay là những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Có lẽ chính cái đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Chính bằng màn trình diễn, và cả sự quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình như chưa bị đánh mất cả chữ trinh. Và cả trong cái đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc lố bịch đó chính là có thể bán cho những ai có tang đang đau đớn vì kẻ chết như cũng đã được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Quả thực đây “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!…”
Thông qua đó ta còn như đã thấy còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó. Và không ai cả ngoài đó là những người đưa tang. Đầu tiên là những ông bạn được coi là thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang lại như chỉ để khoe huân chương, huy chương, khoe những “kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn” mà thôi chứ có thương xót gì người đã mất. Rồi những giới thượng lưu đều như cảm động khi trông thấy làn da thập thò trên cánh tay và ngực Tuyết,…Cái đám tang như là để họ có thể là trò hề, như là một dịp để họ những con người kia thỏa sức thể hiện.
Chính bằng một ngòi bút trào phúng bậc thầy, tác giả tài năng Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, như vạch mặt cả những hạng người như đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia” đặc sắc này.
“Số đỏ” là tiểu thuyết đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, cũng là tác phẩm có giá trị bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm này, thông qua việc xây dựng tình huống “cười ra nước mắt” tác giả đã vạch trần bản chất thối nát, lố lăng của tầng lớp địa chủ, đại tư sản, qua đó là tiếng khóc đầy xót xa cho sự suy đồi của những giá trị đạo đức tốt đẹp. Chương XV của tác phẩm – Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích tiêu biểu cho cảm hứng trào phúng, phê phán này. Nhận xét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cũng như tiểu thuyết “Số đỏ”, có ý kiến cho rằng “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng như một tấn trò đời của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát”.
“Tấn trò đời” là tác phẩm tập hợp 97 tiểu thuyết đặc sắc của “bậc thầy chủ nghĩa hiện thực” Balzac. Qua Tấn trò đời là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Pháp trong những năm nửa đầu thế kỉ XIX. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến với sự suy đồi của giai cấp địa chủ đại tư sản. Chính sự tương đồng trong nội dung phản ánh đã gợi liên tưởng “Số đỏ” của Việt Nam chính là “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.
“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, đoạn trích nói về đám tang của cụ cố Tổ. Thông qua những tình huống hài hước, tác giả Vũ Trọng Phụng đã vạch trần cái lố lăng của các nhân vật trong câu chuyện. Bút pháp trào phúng quen thuộc đã thể hiện ấn tượng về niềm vui sướng, hạnh phúc của những thành viên trong gia đình cố Hồng trước sự ra đi của cụ cố Tổ.
Ngay tên của đoạn trích đã thể hiện được cái bi hài kịch trong gia đình đại tư sản danh giá “hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thăng hoa, vui sướng khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống, còn “tang gia” lại chỉ gia đình có tang, gắn với sự mất mát về tình cảm. Theo lẽ thường, một gia đình có tang thì không khí bao trùm sẽ là nỗi đau thương, sự mất mát về người và tình cảm. Nhưng đám tang của cụ cố Tổ lại thật lạ lùng, bởi đám tang tuy có sự mất mát về người nhưng lại có thể mang đến hạnh phúc, sự thỏa mãn cho tất cả các thành viên trong gia đình và ngoài gia đình.
Cố Hồng – con trai của cụ cố Tổ cảm thấy vui sướng vì được mặc áo xô gai, chống gậy “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy…”. Trong suốt đám tang, cố Hồng luôn tỏ ra già yếu, lẩn thẩn cùng câu nói cửa miệng quen thuộc “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Niềm vui sướng của nhân vật này khi cha của mình mất chính là muốn nghe lời trầm trồ, tán thưởng của mọi người trong khu phố, muốn phô ra cái phúc của một gia đình đại tư sản, rằng con trai già bố mới mất. Vợ chồng Văn Minh là con cả của Cố Hồng, theo lẽ thường cần đứng ra lo chu toàn ma chay cho ông nhưng vấn đề mà vợ chồng Văn Minh quan tâm lại là việc thừa kế “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành” và việc nên hay không nên cưới chạy tang cho cô Tuyết.
Phán Mọc Sừng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc vì được thêm một số tiền kha khá, cậu Tú Tân cảm thấy hạnh phúc vì được chụp ảnh “sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Cô Tuyết diện lên mình bộ trang phục ngây thơ không phù hợp bối cảnh. Mọi cái lố lăng, rởm đời được phô bày một cách rõ nét mang đến tấn bi hài cười ra nước mắt.
Qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, tác giả Vũ Trọng Phụng đã lên án gay gắt xã hội thực dân nửa phong kiến với phong trào Âu Hóa đầy lố lăng, nơi những giá trị đạo đức bị coi nhẹ, chà đạp để trở thành thứ bi hài trong cuộc sống. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã mỉa mai, chế giễu đầy sâu cay với đám ma khác đời, có một không hai này “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.
Số đỏ là lời lên án sâu sắc cái đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cũng là tiếng khóc xót thương cho sự ra đi của những giá trị đạo đức. “Hạnh phúc của một tang gia” là tấn bi hài cười ra nước mắt mà Vũ Trọng Phụng đã tái dựng đầy thành công.
Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học VN. Có lẽ đặc sắc nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của 1 tang gia” được trích từ tác phẩm “Số đỏ”. Tác phẩm như một lời phê phán cái sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Đó là những đứa con, cháu bất hiếu đã đi trái lại với truyền thống đạo đức của dân tộc ta.
“Hạnh phúc của 1 tang gia” tác giả xây dựng nhan đề đầy kịch tính, đơn thuần lúc bình thường nếu như gia đình có người mất thì tất cả đều phải đau buồn và tiếc thương chứ, vậy mà ở đây chứa đựng 1 nghịch lí: mọi người luôn bận rộn lo toan để tổ chức 1 đám tang chu đáo linh đình như 1 đám rước với lại còn vui mừng nữa chứ, những người vui mừng đó không phải ai khác đó chính là những đứa con cháu của cụ cố tổ. Ở đây Vũ Trọng Phụng thực sự gây chú ý cho người đọc và làm bật lên tiếng cười phê phán rất lớn. Đã từ lâu mọi người trong cái gia đình này rất mong cụ cố tổ chết để được hưởng hạnh phúc. Mọi người đều có một niềm hạnh phúc riêng từ cái chết ấy.
Cụ cố Hồng là con trai của cụ tổ thế nhưng chỉ vì lợi riêng mà hạnh phúc trước sự ra đi của cha mình. Cụ ung dung ngồi hút thuốc phiện và cứ gắt 1 câu vô nghĩa “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” đến 1872 lần và càng thể hiện rõ hơn khi cụ cứ mơ màng nghĩ đến lúc “cụ mặc đồ xô gai chống gậy, ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!’ Thật là một đứa con bất hiếu và háo danh đến mức mù quáng. Không chỉ có cụ Hồng mà đứa cháu đích tôn của ông lại mời luật sư đến để chứng kiến cái chết của ông nội mình để cho “cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không phải là lý thuyết viển vông nữa” và không biết phải xử trí như thế nào với Xuân tóc đỏ về những vụ thua kiện mà Xuân gây ra đó không phải ai khác mà chính là ông Văn Minh một người cháu hám của, hám lợi. Còn vợ của ông – bà Văn Minh thì đây là một cơ hội để mặc bộ đồ xô gai tân thời của tiệm may Âu hóa và càng mừng hơn vì mốt model của đám ma được tung ra và là lúc bà thu lợi nhuận để kiếm lời. Còn cô Tuyết là 1 cô con gái hư hỏng, lố lăng cũng có dịp ăn mặc thời trang “mặc bộ y phục ngây thơ” rất lố lăng trông như hở cả nách và nửa vú và “trên mặt hơi có một vẻ buồn lãng mạng rất đúng mốt 1 nhà có đám”.
Cậu Tú Tân thì có dịp khoe khoang tài chụp ảnh và có cơ hội giải trí, trong những đứa con cháu ấy dường như ai cũng có 1 niềm vui riêng nhưng có lẽ người vui sướng nhất là ông Phán mọc sừng một kẻ trục lợi từ cái chết của cụ tổ và là 1 kẻ hám tiền, vô liêm sĩ, ông rất vui mừng vì được chia món tiền lớn từ “đôi sừng” vô hình trên đầu của mình có ai mà lại vui khi mình bị vợ cắm sừng mà lại được thêm tiền vì “đôi sừng” ấy chứ! Đúng là 1 kẻ vô liêm sỉ. Vì món tiền được chia mà ông bàn việc làm ăn với Xuân tóc đỏ để thu thêm lợi cho mình. Bằng cách nói dí dỏm và nghệ thuật đối lập tác giả đã chỉ ra họ là những đứa con cháu hám danh, bất hiếu, vô đạo đức đã chà đạp lên đạo lí làm người cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc. Những người trong gia đình đã thế thì những người ngoài gia đình càng vui hơn khi họ được những phần lợi nhuận từ cái chết ấy như hai viên cảnh sát Min-đơ & Min-toa đang lúc thất nghiệp lại có việc làm và dĩ nhiên là có tiền, các bạn của cụ cố Hồng thì có dịp để khoe khoang nào là những huy chương: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… đến những bộ râu trên mép trên cằm, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc dài hoặc ngắn, còn các trai thanh gái lịch thì có dịp hẹn hò nhau, tán tỉnh nhau, chim nhau, cười tình với nhau đủ mọi thứ chuyện. Thật là một cảnh dở khóc dở cười của những kẻ trai thanh, gái lịch. Đám ma ở đây chúng ta thấy không có sự thương tiếc, đau xót mà ngược lại còn làm nơi để hẹn hò tán tỉnh.
Ở đây Vũ Trọng Phụng đã dựng lên 1 bức tranh trào phúng, phê phán thực trạng và mang đậm tính hài hước. Ở trên tác giả đã dựng 1 bức tranh chân thực về sự giả dối vui sướng của những người trong và ngoài gia đình thì ở đây tác giả lại miêu tả cảnh 1 đám tang thật gương mẫu với cảnh “1 đám ma theo cả lối ta, tàu, tây, lợn quay đi lọng” 1 đám ma thật to tát như đám rước “có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa”. Bằng giọng văn hóm hỉnh, châm biếm tác giả viết “Thật là 1 đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” một đám ma chậm chạp như đám rước với câu “đám cứ đi” tác giả đã miêu tả bao quát cảnh đưa đám nhưng ở đây làm cho chúng ta liên tưởng dường như tác giả không phải là người thuật lại sự việc nữa mà là người chứng kiến và tham gia vào đám tang đó bằng việc miêu tả cận cảnh: người ta thấy những câu như con bé nhà ai kháu thế? – con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! – Ừ, ừ cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! và với điệp từ “Đám cứ đi” làm rõ sự chậm chạp của đám ma hơn nữa!.
Cứ như thế đến cảnh hạ huyệt mở đầu là cậu Tú Tân với “chiếc áo thụng trắng” trách móc từng người và dàn dựng những cảnh để khoe tài năng chụp ảnh của mình 1 cách giả dối, cùng với đó là những người bạn của cậu “rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau “thật là vô văn hóa, bát nháo, làm mất đi vẻ trang nghiêm của đám. Tiếp đến “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng” với thủ pháp nghệ thuật của mình tác giả đã miêu tả sự dí dỏm của cảnh hạ huyệt bằng những tiếng khóc “Hứt…hứt…..hứt…” của ông Phán mọc sừng bên cạnh đó ông còn bàn việc làm ăn với Xuân tóc đỏ, ông dúi vào tay nó 1 cái giấy bạc 5 đồng gấp tư. Qua cảnh hạ huyệt và cảnh đưa đám tác giả nêu rõ hơn về màn kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại bất hiếu, bất nghĩa của xã hội lúc bấy giờ.
Từ một tình huống truyện cơ bản Vũ Trọng Phụng đã xây dựng những mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau nhằm để thể hiện rõ bản chất vô đạo đức với sự lố lăng của tầng lớp xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Cùng với những thủ pháp nghệ thuật cường điệu, nói ngược, mỉa mai càng làm nổi bật sự vô đạo đức đồi bại của xã hội trước 1945.
Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!
Nghệ thuật trào phúng, suy cho cùng, là nghệ thuật phát hiện và diễn tả được những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười. Viết về cái “tang gia” “hạnh phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng cười nhiệt đới” đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật này. Thậm chí, ông còn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kĩ một chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.
Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau: Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi” (!) Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái, đã om sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó – thực ra, do ông Phán dây thép thuê Xuân làm với giá 10 đồng – đã trực tiếp gây ra cái “chết thật” của cụ cố Tổ và có cái đám tang kì lạ này.
Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch lạc một cách đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà văn miêu tả, trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất thường mang mâu thuẫn trào phúng (“Hạnh phúc của một tang gia…”.), nó dự báo những bất đồng giữa “phái trẻ”, “phái già” cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói vào…), và nó bao hàm cả cái “chuẩn mực” đáng hãnh diện và đáng cho những đám ma khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).
Xem thêm: Khái Niệm Người Làm Chứng Và Người Chứng Kiến, Please Wait
Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang diễn trong chương này.
Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường ví von “buồn như cha chết”, “buồn như nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ tang gia thường gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.
Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của tác giả, kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.
Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người chết” thì sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật” của ông nội vợ mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”.
Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết” thì sung sướng đến ngây ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.
Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.
Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được chưng diện mốt trang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v.
Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông nom rất hết lòng”. Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”
Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đám, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”. Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v.
Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ cái “chết thật” của chính mình mà được sung sướng: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ “khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”.
Nó lại được duy trì bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”. Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là người thích đùa và rất biết đùa.
Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính chất lập lờ giữa cái giả với cái thật. Đã là cái giả, cái rởm thì phải mô phỏng cái thật, cố tình giống thật nhưng thường không bao giờ hoàn toàn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn. Rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày.
Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh giá” đến đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm bật ra tiếng cười phê phán.
Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ, không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Một khi đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật, thi ca, khoa học rởm; văn minh “Âu hóa” rởm; tôn giáo rởm,… thì cũng có thể có chuyện buồn đau, tang chế kém lắm chứ. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất của nó.
Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật – giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác giả, câu văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết giả?). Nhìn từ phía nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên, khi ông cụ “chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia “ai cũng” “hạnh phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là một điệp khúc đầy mỉa mai.
Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc “thực hành” cái “chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các quí ông “tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”, mà vì trông thấy “làn da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực tuyết,…
Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng khóc. Nhưng chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái tim, cất lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả người đi” là cốt để người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”.
Trong khi kể về “hạnh phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ. Nhưng mặt khác, ông cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.
Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ “đúng với ý muốn…”, “như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò diễn ấy của đám ma:
“Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh.”,…
“Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ đến ý của cậu Tú Tân qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã “chụp ảnh”- nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả. Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng bất ngờ thì càng thú vị, hài hước.
Đọc chương truyện, có cảm giác như không một hành vi giả tạo nào của đám con cháu “chí hiếu” – dù rất nhỏ – qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa mai bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ông lật tẩy Văn Minh chồng:
“Ông phân vân, vò đầu bứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng với cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.” Ông lật tẩy cô Tuyết: “Hôm nay, Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc xê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh.
Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.” Ông lật tẩy “các ông tai to mặt lớn”: “… Nhiều ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.”
Ông lật tẩy cả đám đông: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.”
Ông lật tẩy cả bầy con cháu “chí hiếu”: “Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ.” Và sắc sảo, bất ngờ nhất là việc ông lật tẩy cuộc “thanh toán hợp đồng” kín đáo, tinh vi giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ: “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy.
Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. – Hứt!… Hứt!… Hứt!… Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách tay ra thì chợt thấy ông phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.”
Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường tìm đến với các hình thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kết cấu đến cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng. Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu thường được nhà văn sử dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh; b) tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.
Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và “hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên, nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật riêng. Các câu, đoạn tả viễn cảnh – chẳng hạn: “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….”, “Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”- thường làm cho người ta có cái cảm giác là đám ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. (Mà người đời thì vẫn hay đo lòng hiếu nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy).
Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm cho người ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi soi mắt nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới thấy được sự thật này: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.”, hoặc: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…”.
Vậy là, nhìn từ cự ly xa nhà văn thâu tóm được trung thành cái bề ngoài có vẻ giống thật, thậm chí rất “gương mẫu”, “to tát” của đám ma. Còn nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực chất chứa đựng và được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự nhiên, từ mâu thuẫn thật- giả này.
Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”:
“Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations.
Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban cho những ai có tang đường đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ cố Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.
Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”, “điên người lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện trở nên căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn có một ngày mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào. Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ dàng gì. Ở cấp độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một số hình thức câu văn nói mỉa.
Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản nghĩa, ngược nghĩa. Ví dụ cụm từ “hạnh phúc của một tang gia” trong nhan đề đoạn trích, hoặc cụm từ “công hiệu đến nỗi họ mất mạng” trong đoạn văn nói về “thuốc thánh” đền Bia (“Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng.”).
Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng hạn, sau khi ghi lại hàng loạt câu nói “thì thào” trơ trẽn, nhảm nhí của đám “trai thanh gái lịch” đến dự đám tang, tác giả viết: “Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.”
Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng Phụng.
Đoạn trích ” Hạnh phúc của một tang gia” – trích trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng được coi là một tác phẩm nổi tiếng và mang nhiều ý nghĩa về cuộc sống con người thời đó. Cũng là tác phẩm lên tiếng căm hờn, khinh bỉ cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.
Khi đọc nhan đề của tác phẩm chắc không ai không thắc mắc phải không nào? Đám tang là nơi thể hiện sự tôn kính, trang nghiêm lịch sự và tiếc thương với những người đã khuất nhưng đám tang trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đó là một niềm vui, là cơ hội để cho mọi người khoe của là nơi để mọi người đùa giỡn nói chuyện cười đùa cùng nhau. Các thành viên trong gia đình bận rộn để tổ chức chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải một đám ma. Và là hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi mà người thân của mình ra đi. Cho thấy được cái xã hội của tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ chỉ màng đến danh lợi mà không màng không thương tiếc gì người thân của mình.
Tác phẩm đã nói lên được cái chết của cụ tổ đó là cái chết của sự ấm ức, đã được mọi thành viên trong gia đình mong chờ. Xuân tóc đỏ là một nhân vật được tác giả đưa vào để làm nền tảng, là người gây ra cái chết cho cụ tổ. Tất cả các thành viên trong gia đình gào lên như buồn đau xót trước cái chết của cụ tổ nhưng thật ra không phải vậy, mà đó là sự vui mừng hạnh phúc khi cụ tổ chết đi và để lại một khối gia tài to lớn cho các thành viên.
Cụ cố Hồng con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết thật của cha mình và cho rằng đây là cơ hội để cụ tỏ ra sự già yếu khi lo cho cái chết và bất ngờ trước cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được cái sự lố lăng mà ngu dốt hám danh trong cái xã hội phong kiến.
Văn Minh và ông Typn thì vui mừng về cái chết của ông nội và vui mừng hơn khi ông được đưa nền văn minh Á Âu và quảng cáo hàng của mình vào đám tang của ông nội mình. Không chỉ vậy ông còn tìm cơ hội để trả ơn cho Xuân tóc đỏ để bịt miệng những tội ác của ông. Bà Văn Minh thì vui mừng vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Tỏ ra sự vô ơn bạc nghĩa là một kẻ vô học thức.
Cô Tuyết thì được dịp mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh, đồng thời lại có cơ hội để gò lấy trên mặt lại hơi có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Để tỏ ra sự mất trinh trắng của mình còn tỏ ra mình là một người hư hỏng không được dạy dỗ.
Cậu Tú Tân thì vui mừng vì có thể chụp ảnh vì cái máy ảnh của cậu để lâu ngày không dùng, cậu tỏ ra là mình là đạo diễn và săn ảnh chụp ảnh một cách lố lăng tạo ra những cảnh của không khí đám tang.
Ông Phán Mọc Sừng thì vui mừng vì cái sừng trên đầu mà được hưởng thêm tiền. Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng càng nhiều được nhiều người tôn trọng đánh giá cao vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.
Thông qua các nhân vật trên tác giả đã khái quát được một cách khái quát về các thành viên trong nhà cụ tổ. Thông qua các nhân vật này ta có thể thấy được cái bản chất lố lăng vô học của các thành viên trong gia đình khi có người thân của mình ra đi.
Không chỉ các thành viên trong gia đình mà còn có những người ngoài của gia đình cũng vậy, là cơ hội để những người không có việc làm có việc làm, là cơ hội để mọi người nói chuyện cười đùa cùng nhau, cùng những người khoe của khoe cái sự giàu sang của mình, là dịp để họ hẹn hò, cặp kè, nói chuyện tình tứ, đi dạo phố cùng nhau. Và niềm sung sướng hơn khi thấy được những vùng nhạy cảm hấp dẫn của cô Tuyết đứa cháu hưng hỏng.
Cảnh đám tang được diễn ra như đám hội như một tấm đại hài kịch, nói lên sự lố lăng, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán phán mạnh mẽ bản chất bất nhân, giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Được gọi với cái tên ông vua phóng sự đất Bắc, Vũ Trọng Phụng là nhà văn yêu thích của không chỉ rất nhiều độc giả mà còn với nhiều văn nghệ sĩ trong văn đàn Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông chính là tác phẩm Số đỏ. Số đỏ là tiểu thuyết được Vũ Trọng phụng viết năm 1936, được coi là một kiệt tác của văn học trào phúng. Ta có thể tìm hiểu điều đó rõ nhất qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Ngay từ cái tiêu đề người đọc có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rõ ràng: tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lí. Nhưng nếu đọc truyện thì lại thấy tiêu đề này vô cùng hợp lí. Cái mà xã hội vốn coi là nghịch lí lại trở thành rất hợp lí trong gia đình đại bất hiếu này.
Bối cảnh của đoạn trích là sự ra đi của ông cụ tổ là bố của cụ cố Hồng, đã ngoại tám mươi tuổi và nay ra đi bởi vì uất ức trước việc cháu rể chồng của cụ ngoại tình. Theo lẽ thường cái chết của người có địa vị nhất nhà, người đóng vai trò là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ thành viên trong gia đình sẽ làm đau đớn, tan nát trái tim của con cháu. Nhưng ở đây, cái chết của cụ cố tổ dường như lại chính là niềm mong đợi mòn mỏi của các thành viên từ rất lâu. Như một nhà quay phim, ống kính của tác giả quay cận cảnh từng nhân vật một. Mỗi nhân vật lại có một hạnh phúc riêng, một niềm vui khôn tả:
Cụ cố Hồng hạnh phúc vì sẽ được mọi người trọng vọng về tuổi thọ của người con giai nhớn là “cố Hồng”. Dù vẫn còn trẻ chưa đến cái tuổi “thọ” nhưng cụ luôn thích được mọi người trọng vọng, kính nể, thích được tôn sùng như một vị cụ cố đức cao trọng vọng. Hẳn rồi, bố mình chết thì mình dĩ nhiên trở thành người địa vị lớn nhất nhà, không cố thì còn là gì nữa. Ông Văn Minh thì mừng vì đây là thời kì cái chúc thư đi vào thời kì thực hành. Ông nội mất thì cái sản nghiệp của ông mới được chính thức để lại cho con cháu mà người cháu trai này hẳn đang sốt ruột như ngồi trên tổ kiến mong chờ nó được thực hiện.
Bà Văn Minh thì mừng vì đây là cơ hội quảng cáo cho những mốt áo tang, đem lại lợi nhuận cho tiệm may. Đám tang của cụ cố tổ hẳn là một cái đám tang long trọng và tầm cỡ, sẽ có rất nhiều người đến dự đủ các tầng lớp từ quan chức tới tầng lớp bình dân, với một “ngày hội” lớn như vậy, nếu để các thành viên trong gia đình cùng diện những bộ áo tang tân thời của bà thì không những không mất tiền quảng cáo mà những bộ váy ấy sẽ được rất nhiều người biết đến và tìm đến với cửa hiệu Âu hóa.
Cô Tuyết thì vui mừng vì đây là cơ hội trưng diện y phục mốt nhất trước mặt người yêu cùng mọi người. Với cái vẻ đẹp xuân sắc cùng sự giàu có của gia đình, cô có thể sắm những bộ cánh điệu đà để Xuân tóc đỏ cùng mọi người ngắm nhìn sự thơ ngây của mình.
Với cậu Tú Tân thì đây là cơ hội để cậu điều khiển các nhà tài tử điện ảnh thi thố tài năng trước mắt mọi người. Thời điểm đương thời, có được những chiếc máy chụp hình đã không phải những gia đình tầm thường, giờ đây cậu lại có thể khoa chân múa tay yêu cầu cả một nhóm thợ phải chụp kiểu này kiểu kia, góc này góc khác, quả như một nhiếp ảnh gia tầm cỡ, đầy nghệ thuật. Có vẻ như gia đình nhà cụ cố tổ ai cũng theo đuổi những nét đẹp nghệ thuật hiện đại và đời mới nhất.
Ông Phán mọc sừng thì mừng bởi cuộc thương thảo với Xuân tóc đỏ đã kết thúc tốt đẹp, đúng như ông mong đợi, thành công mỹ mãn. Ông vừa có thể công khai cho gia đình nhà vợ cái hãnh diện vì mình được là một người chồng mọc sừng, có thể vạch trần cô vợ lăng loàn Hoàng Hôn. Cái vụ thương thảo mà ông đã mất tiền túi giờ đây lại phát huy tác dụng còn hơn cả mong đợi, làm cho tất cả mọi người đều biết, làm cụ cố tổ tức đến nỗi chết vì uất.
Đối với bạn của cụ cố Hồng, đây là cơ hội trưng diện các kiểu râu và các loại mề đay, “Bắc Đẩu Bội Tinh, Long Bội tinh, Cao Mên Bội tinh, Vạn Tượng Bội tinh…”. Không phải bỗng dưng mà trời cho cơ hội để khoe những cái đó với bàn dân thiên hạ, vậy thì giờ đây, cả thiên hạ sẽ phải nhìn vào những huân chương của các ông. Đồng thời đây cũng là cơ hội để họ chen nhau đi gần quan tài để nhìn bộ ngực của cô Tuyết qua làn áo voan của bộ váy ngây thơ.
Đối với đám bạn của con cháu: bà phó Đoan, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết… gồm toàn giai thanh gái lịch, nam thanh nữ tú của đô thành nhưng họ đi ở đây là để trưng diện những bộ cánh hiện đại nhất, đám tang sẽ là một sân khấu lớn và họ sẽ là những người mẫu thời trang catwalk trên sàn diễn của mình. Đây cũng là cơ hội để họ chim chuột nhau, cười tình với nhau, bình phẩm chê bai nhau.
Cả đám tang liên tục xuất hiện điệp khúc “đám cứ đi”, diễn tả một sự tiếp diễn bất tận, cái sự việc đưa một đám tang như một con đường trải thảm đỏ để người ta bước đi trình diễn trong sự trầm trồ ngắm nhìn của mọi người.
Cảnh hạ huyệt là lúc hội tụ đầy đủ nhất sự giả dối vô đạo đức cũng là lúc mà các vai hề diễn xuất một cách tài tình nhất (cảnh hề ấy lại gợi liên tưởng tới đám ma của Gorio trong tác phẩm của Balzac), nào là người gục người quỳ người gào khóc, tất cả theo đúng sắp xếp của cậu Tú Tân để cậu thực hiện bộ ảnh trong những phút giây đ