Trong quá trình làm việc máy biến áp có 3 chế độ làm việc là không tải, ngắn mạch và có tải.
Bạn đang xem: Hệ số quá tải máy biến áp
Thông qua các thí nghiệm không tải và ngắn mạch, ta có thể xác định được các tổn hao của máy biến áp.
Chế độ không tải là chế độ mà thứ cấp hở mạch (I2 = 0), sơ cấp được cung cấp một điện áp (U1 =U1đm ).
Không nên cho MBA làm việc ở chế độ không tải hay non tải, vì lúc này hệ số công suất rất thấp, nó sẽ làm xấu hệ số công suất của lưới điện.
Mục đích của thí nghiệm không tải nhằm xác định hệ số biến áp k, tổn hao sắt từ trong lõi thép Pfe, và các thông số của MBA ở chế độ không tải.
Từ sơ đồ thí nghiệm của MBA ở chế độ không tải ta có các chỉ số từ các dụng cụ đo: I0, P0, U1, U20.
Chế độ ngắn mạch là chế độ mà thứ cấp ngắn mạch (U2 = 0), sơ cấp được cung cấp một điện áp (U1 =U1đm ).
Trong vận hành, do nhiều nguyên nhân làm máy biến áp bị ngắn mạch như hai dây dẫn điện ở phía thứ cấp chập vào nhau, rơi xuống đất, v.v
Xem thêm: #1 Cách Chặn Wifi Từ Thiết Bị Lạ, Hướng Dẫn Chặn Truy Cập Wifi
Sơ đồ tương đương MBA ở chế độ ngắn mạchVì tổng trở ngắn mạch rất nhỏ cho nên dòng điện ngắn mạch thường lớn bằng (10 ~25)Iđm, nguy hiểm đối với MBA và ảnh hưởng đến các tải dùng điện. Do đó, cần tránh tình trạng ngắn mạch khi sử dụng MBA.
Mực đích của thí nghiệm ngắn mạch dùng để xác định tổng tổn hao đồng trên dây quấn Pcu1, Pcu2, và các thông số của MBA ở chế độ ngắn mạch.
Từ sơ đồ thí nghiệm của MBA ở chế độ ngắn mạch ta có các chỉ số từ các dụng cụ đo: Un, Pn, I1đm,I2đm.
Chế độ có tải là chế độ trong đó dây quấn sơ cấp nối vào nguồn điện áp định mức, dây quấn thứ cấp nối với tải.
Để đánh giá mức độ tải, người ta đưa ra hệ số tải kt.
Máy biến áp có tải, sự thay đổi tải gây nên sự thay đổi điện áp thứ cấp U2. Khi điện áp sơ cấp định mức, độ biến thiên điện áp thứ cấp được tính như sau:
Khi MBA làm việc sẽ có các tổn hao sau: